Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014

Xét nghiệm hóa sinh để chẩn đoán và kiểm soát glucose máu ở bệnh nhân đái tháo đường

 Xét nghiệm glucose niệu vừa ít nhạy cảm và không đặc hiệu. Nó không phản ánh được những thay đổi của glucose máu bởi ngưỡng thận ở mỗi người khác nhau, nhất là ở người lớn tuổi, mặt khác độ nhạy cũng như độ đặc hiệu của phương pháp định tính và bán định lượng không cao.
Xét nghiệm hóa học dùng trong y học nói chung và hóa sinh nói riêng được sử dụng trong lâm sàng hiện nay rất phong phú, đa dạng. Có tới hàng trăm xét nghiệm khác nhau được sử dụng bằng các phương pháp khác nhau rất chính xác, có thể thực hiện trong thời gian rất ngắn tính bằng giây thay cho các kỹ thuật được dùng trước đây có khi phải cần đến nhiều giờ hoặc nhiều ngày.
Ngày nay, cùng với những phát triển tiến bộ của y học trong chẩn đoán và điều trị bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ), người bệnh được hưởng rất nhiều những tiến bộ đó trong chẩn đoán. Nhằm mục tiêu kiểm soát đường máu tối ưu để phòng tránh các biến chứng cấp tính và mạn tính của bệnh ĐTĐ, kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân, người ta làm xét nghiệm, kỹ thuật sau:
Glucose niệu
Xét nghiệm glucose niệu vừa ít nhạy cảm và không đặc hiệu. Nó không phản ánh được những thay đổi của glucose máu bởi ngưỡng thận ở mỗi người khác nhau, nhất là ở người lớn tuổi, mặt khác độ nhạy cũng như độ đặc hiệu của phương pháp định tính và bán định lượng không cao.
Xét nghiệm glucose niệu có thể khảo sát qua một số phương pháp như: định tính bằng giấy thử, định lượng bằng giấy thử bán định lượng, đinh lượng bằng phương pháp quang phổ có sự tham gia của enzym hexokinase hay glucose dehydrogenase.
Glucose máu
Glucose huyết tương tĩnh mạch, là xét nghiệm quyết định để chẩn đoán bệnh đái tháo đường. Huyết tương được lấy bằng phương pháp ly tâm máu toàn phần nên cần được lưu ý hồng cầu vẫn tiếp tục sử dụng glucose sẽ làm nồng độ glucose giảm xuống, nên tốt nhất sau khi lấy máu xong thì ly tâm lấy huyết tương trong vòng 60 phút hoặc là dùng các chất ức chế hiện tượng thủy phân glucose như natrifluorid và chất chống đông EDTA…
Định lượng glucose máu bằng phương pháp quang phổ với các enzym đặc hiệu hexokinase, glucose dehydrogenase, glucose oxidase…
Định lượng glucose máu có thể thực hiện tại các labo xét nghiệm hoặc tại nhà bằng các máy thử cá nhân dùng để theo dõi quá trình điều trị.
Định lượng hemoglobin A1c hay hemoglobin glycosyl      
Hemoglobin (Hb) glycosyl là sản phẩm tạo thành của glucose hoặc dẫn xuất phosphoryl của glucose lên đầu N tận chuỗi B của HbA có nhiều thành phần A1a1, A1a2, A1b và A1c trong số các HbA thì HbA1c có số lượng quan trọng nhất. Phản ưng tạo thành Hbglycosly không cần xúc tác của enzym phụ thuộc vào nông độ glucose trong hồng cầu. phản ứng glycosly hóa diễn ra trong suốt thời gian của đời sống hồng cầu. Hb glycodly tồn tại cùng với đời sống hồng cầu khoảng 20 ngày.
Định lượng HbA1c có nhiều phương pháp, có thể dùng phương pháp sắc khí lỏng cao áp hoặc phương pháp hóa miễn dịch (như miễn dịch đo độ đục trên các máy sinh hóa tự động)
Định lượng HbA1c nhăm giúp theo dõi nồng độ glucose máu trung bình trong khoảng thời gian 8-10 tuần trước đó, định lượng HbA1c giúp theo dõi quá trình điều trị không có giá trị chẩn đoán bệnh đái tháo đường.
Đinh lượng fructosamin máu
Albumin là thành phần chính của protein huyết tương. Albumin cũng chứa các nhóm huyết thanh chứa các gốc amine cũng có hiện tượng gắn và hiện tượng gắn đường xảy ra cũng không cần sự xúc tác của enzym. Fructosamin để chỉ liên kết cetoamin giữa glucose và protein.
Định lượng frutosamin có thể bằng nhiều phương pháp, trong đó phương pháp miễn dịch đo độ đục là phương pháp có độ tin cậy cao.
Định lượng frutosamin giúp theo dõi nồng độ glucose máu trung bình trong thời gian 2-3 tuần trước đó nên thường dùng để đánh giá hiệu quả của phương pháp điều trị trong vòng 2 hoặc 3 tuần.
Định lượng insulin máu
Insulin là hormon của tuyến tuy có tác dụng hạ đường huyết và được bài tiết khi có mặt glucose trong máu, nhằm thúc đẩy sự vận chuyển glucose vào trong các tế bào của cơ thể. Insulin tác dụng qua trung gian chất thụ thể có ở màng tế bào.
Định lượng insulin có thể sử dụng nhiều phương pháp như phương pháp miễn dịch hóa phát quang hoặc miễn dịch điện hóa phát quang là phương pháp có độ đặc hiệu cao.
Định lượng insulin có ý nghĩa trong việc định hình thể ĐTĐ và điều trị
Định lượng C- Peptid
Chất tiền thân của insulin là pro – insulin. Trysin đã thủy phân pro – insulin cắt mẩu peptid CITRIN gồm 30 acid amin nên lượng bài tiết peptid C bởi tụy tỉ lệ thuận với insulin. Nồng độ peptid C trong máu cho phép biết lượng insulin trong máu nội sinh.
Định lượng C-peptid có trọng lượng phân tử thấp nên sử dụng phương pháp miễn dịch hóa phát quang hoặc miễn dịch hóa phát quang có độ đặc hiệu cao.
 
BS. Nguyễn Quốc Việt - Bệnh viện nội tiết

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét