Trầm cảm là tình trạng rối
loạn tâm thần phổ biến nhất có liên quan với đái tháo đường (ĐTĐ). bệnh có thể
xảy ra ở nhiều giai đoạn trong diễn tiến tự nhiên của ĐTĐ. Tuy nhiên, đa số
người bệnh không được phát hiện và điều trị trong chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Tỉ lệ trầm cảm trong ĐTĐ là
gấp đôi so với dân số chung, với tỉ lệ gộp là 9% nếu chẩn đoán bằng phỏng vấn,
và 26% nếu chẩn đoán bằng cách tự chấm điểm triệu chứng trầm cảm theo thang
điểm.

Trầm cảm làm tăng 37% nguy cơ
mắc bệnh ĐTĐ týp 2. Ngược lại, ĐTĐ làm
tăng 3 lần nguy cơ mắc bệnh trầm cảm, nhất là ở những người ĐTĐ đã xuất hiện
biến chứng.
Nguy cơ tử vong tăng lên gấp
5 lần. Trầm cảm có liên quan với tử vong ngay cả khi bệnh nhân bị trầm cảm nhẹ
hoặc chưa có biểu hiện lâm sàng. Bệnh nhân cao tuổi có bệnh ĐTĐ týp 2 và những
người có biến chứng thuộc nhóm có nguy cơ cao.
Khi bị trầm cảm, các gánh
nặng liên quan đến ĐTĐ được xem là nghiêm trọng hơn, và sự hài lòng với việc
điều trị ĐTĐ là thấp hơn. Bệnh nhân có trầm cảm và ĐTĐ thường ít hoạt động thể
lực, tăng xu hướng hút thuốc lá, thói quen ăn uống ít có lợi cho sức khỏe và
tuân thủ điều trị ĐTĐ kém. Trầm cảm có liên quan đến cách đánh giá tiêu cực về
các liệu pháp insulin ở người chưa từng sử dụng insulin, và điều này có thể gây
trì hoãn việc điều trị ĐTĐ, chẳng hạn như chậm khởi đầu điều trị bằng insulin
trong ĐTĐ týp 2. Trong một nhóm bệnh nhân được lựa chọn ở bệnh viện cho thấy
tình trạng trầm cảm kéo dài hơn, tái phát nhiều hơn và mức độ nặng hơn ở người
có bệnh ĐTĐ.
ĐTĐ là một bệnh tốn kém, và
đồng mắc bệnh trầm cảm làm tăng thêm chi phí chăm sóc sức khỏe lên 4 lần.
Chẩn đoán trầm cảm ở người
ĐTĐ
Việc chẩn đoán và điều trị
sớm trầm cảm ở người ĐTĐ là rất quan trọng, tuy nhiên trên 50% trường hợp trầm
cảm trong ĐTĐ là không được chẩn đoán. Ba lý do khiến bệnh khó phát hiện, đó
là: nếu bệnh ĐTĐ là kiểm soát kém cũng có các triệu chứng tương tư như trầm
cảm: mệt mỏi, sụt hoặc tăng cân, thay đổi cảm giác ngon miệng, rối loạn giấc
ngủ...; người bệnh không tự nhận ra các dấu hiệu trầm cảm, hoặc có biết cũng ít
khi thông báo cho bác sĩ; thầy thuốc thiếu sự quan tâm hoặc do khả năng hạn
chế.
Trên thực tế, chỉ có khoảng
1/3 số trường hợp trầm cảm ở người ĐTĐ được chẩn đoán. Vì vậy, khi người thân
phát hiện người bệnh có các biểu hiện hoặc hành vi bất thường thì nên sớm thông
báo cho thầy thuốc.
Các dạng bệnh tâm thần đồng
mắc trong ĐTĐ
Các rối loạn tâm thần khác có
thể cùng tồn tại với trầm cảm trong ĐTĐ. Tỉ lệ về các rối loạn lo âu và các vấn
đề về ăn uống cũng gia tăng ở bệnh nhân ĐTĐ so với những người khỏe mạnh. Vì
những rối loạn này có xu hướng đồng xảy ra với trầm cảm trong dân số chung, nên
điều này cũng có thể xảy ra trong bệnh ĐTĐ.
Điều trị người trầm cảm và
ĐTĐ
Việc đầu tiên là tìm ra các
nguyên nhân thực thể gây ra trầm cảm và loại trừ chúng. Các chiến lược đồng
chăm sóc sẽ giúp cải thiện sức khỏe người ĐTĐ và trầm cảm, giúp giảm gánh nặng
của bệnh. Dùng thuốc chống trầm cảm, cùng với thay đổi lối sống như tập thể lực
thường xuyên, chế độ ăn... sẽ giúp cải thiện tốt cho cả bệnh trầm cảm và ĐTĐ.
Ngoài ra, người trầm cảm cần có sự quan tâm giúp đỡ của người thân trong gia
đình và các chuyên gia tâm lý.
Phòng ngừa trầm cảm ở người
ĐTĐ
Mỗi bệnh nhân có những hoàn
cảnh riêng biệt và ứng xử với bệnh hoàn toàn khác nhau. Do đó, người bệnh ĐTĐ
nên sớm chấp nhận rằng mình mắc bệnh ĐTĐ và cần điều chỉnh một số hành vi sống
như: bỏ ngay thuốc lá, giữ tinh thần lạc quan, duy trì luyện tập thể lực, tìm
hiểu nhiều về bệnh ĐTĐ và việc điều trị bệnh. Tự chịu trách nhiệm chăm sóc cho
chính mình. Đặt mục tiêu điều trị, nhưng nên hiểu rằng cần có thời gian đạt
được mục tiêu đó để tránh tâm lý bi quan, chán nản, dễ dẫn đến không tuân thủ
chế độ điều trị.
Chia sẻ cảm xúc với người
thân trong gia đình và bạn bè, giúp họ hiểu về bệnh ĐTĐ và tạo điều kiện cho
mình thực hiện chế độ ăn cũng như các chế độ điều trị và luyện tập một cách
nghiêm túc.
Tìm kiếm sự giúp đỡ của bác
sĩ khi có bất kỳ thay đổi nào trong cơ thể, đặc biệt là những tổn thương ở bàn
chân để có các biện pháp xử trí kịp thời, tránh nguy cơ cắt cụt chi.
BS.CKI. NGUYỄN THANH HẢI
Các vấn đề tâm lý phổ biến
của người đái tháo đường
Phủ nhận: không thể chấp nhận
chẩn đoán thậm chí sau nhiều năm khởi phát,
tức giận, tại sao là tôi, căm thù ĐTĐ.
Sợ hạ đường huyết: có các
triệu chứng lo lắng không đúng vì tự cho là hạ đường huyết mà không kiểm tra
đường huyết để xác nhận. Lo sợ về cảm giác xấu hổ và mất mặt trong những vị
trí, nơi làm việc, hay trường học không quen thuộc.
Sợ tự kiểm tra: có thể liên
quan với việc đọc kết quả đường huyết cao lặp lại nhiều lần và cảm thấy mất khả
năng kiểm soát, thất vọng và tội lỗi.
Sợ tự tiêm thuốc: có thể do sợ kim tiêm hoặc phủ nhận chẩn đoán
ĐTĐ.
Sợ insulin (trong ĐTĐ týp 2):
lo rằng insulin là dấu hiệu bệnh nặng hơn, sắp tử vong, hoặc do tín ngưỡng văn
hóa đặc biệt. Không thích tăng cân đi kèm.
Sợ các biến chứng: lo lắng
quá mức rằng ĐTĐ là một bản án suốt đời, rằng sẽ trở nên tàn phế đi kèm với
đoạn chi, giảm thị lực và giảm chức năng thận, mặc dù có thể điều trị.
Sợ tăng đường huyết: lo lắng
khi đường huyết tăng hơn mức mục tiêu, vì sợ sẽ có biến chứng. Thường gây ám
ảnh hoặc bực mình. |
Nghĩ đến bệnh trầm cảm khi
người bệnh có từ ba triệu chứng sau trở lên, dài trên hai tuần:
1. Mất vui, không còn hứng
thú với các thú vui tiêu khiển.
2. Thay đổi giấc ngủ, dễ thức
sớm, mất ngủ, thức giấc khó ngủ lại, hoặc ngủ nhiều kể cả ngủ ngày.
3. Thay đổi ăn uống, ăn ít
hoặc ăn nhiều hơn bình thường, dẫn đến cân nặng giảm hoặc tăng rất nhanh.
4. Khó tập trung, không xem
tivi hoặc đọc báo được nữa.
5. Cảm giác tội lỗi, cảm thấy
việc làm của mình lúc nào cũng sai.
6. Buồn bã vào buổi sáng sớm.
7. Mất sức sống, căng thẳng,
cảm giác mệt mỏi mọi lúc.
8. Tự tử, có suy nghĩ và hành
vi tự tử, luôn tìm cách làm tổn hại cơ thể.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét