![]() |
Trong týp 2, có sự thiếu insulin tương đối do chỉ giảm sự tiết
insulin hoặc có đề kháng insulin, tức là sự tiết insulin không thiếu
nhưng insulin không nhạy cảm, không cho tác dụng trên các cơ quan đích
(như mô cơ, mô gan). Đái tháo đường týp 2 thường xảy ra ở người trên 40
tuổi và có thể bị béo phì. Trong điều trị, thông thường không dùng đến
insulin mà dùng thuốc hạ đường huyết loại uống (do vậy đái tháo đường
týp 2 còn được gọi đái tháo đường không phụ thuộc insulin).
Ngoài hai loại vừa kể còn có đái tháo đường trong thai nghén là
tình trạng rối loạn dung nạp glucose được phát hiện lần đầu tiên trong
thời kỳ mang thai. Trong đa số trường hợp đái tháo đường trong thai
nghén, thai phụ sẽ trở lại bình thường sau khi sinh, nhưng vẫn có khoảng
30 - 50% có nguy cơ bị đái tháo đường thật sự.
Để biết có bị đái tháo đường hay không, nhất thiết phải đến bác sĩ để
thăm khám và cho làm xét nghiệm đo đường trong máu. Một số người tự
chẩn đoán bằng cách xem nước tiểu có bị kiến bu do nước tiểu chứa đường
(vì có tên bệnh là "tiểu đường" mà!) là không đúng. Khi người bệnh có
đường trong nước tiểu thì thường đã ở giai đoạn muộn, nhiều khi đã có
biến chứng, đặc biệt đối với đái tháo đường týp 2.Thuốc trị gồm những gì?
Trong đái tháo đường týp 1, do tế bào bêta tuyến tuỵ bị huỷ hoại (thường qua cơ chế rối loạn đáp ứng miễn dịch gọi là tự miễn) nên không tiết ra được insulin, phải điều trị bằng insulin là một protein gồm 51 axít amin phân làm hai chuỗi polypeptide (chuỗi A gồm 21 axít amin, chuỗi B gồm 30 axít amin) nối với nhau bởi hai liên kết dusulfid. Trong đái tháo đường týp 2, sự thiếu insulin do ba bất thường: giảm tiết insulin, đề kháng insulin (do giảm tác dụng của insulin trên tế bào mô đích, đặc biệt là tế bào cơ) và tăng sản xuất glucose từ gan. Vì vậy, để điều trị phải dùng các nhóm thuốc hạ đường huyết loại uống như sau:
Làm tăng tiết insulin: gồm có nhóm sulfonylure (glibenclamid, glicazid, glimepirid) và nhóm glitinid (repaglinid, nateglinid).
Cải thiện tình trạng kháng insulin: gồm nhóm biguanid (chỉ có metformin) và nhóm thiazolidinedion (TZD, gồm hai thuốc rosiglitazon - đã bị cấm - và pioglitazon).
Ngăn hấp thu carbohydrat ở ruột: có nhóm thuốc ức chế men alpha-glucosidase như acarbose, voglibose, miglitol.
Ngoài các thuốc kể trên hiện nay còn có các thuốc mới như thuốc tăng cường hoặc bắt chước incretin (exenatid), thuốc ức chế enzym DPP-4 (sitagliptin, vildagliptin).
Những điều cần lưu ý
Nên: hợp tác tốt với bác sĩ trong điều trị và thực hiện chế độ dinh
dưỡng và luyện tập thể lực. Dùng thuốc theo đúng chỉ định đều đặn, liên
tục. Biết cách tự sử dụng insulin để chủ động dùng thuốc nếu được bác
sĩ chỉ định dùng insulin. Biết tự theo dõi đường huyết và phát hiện các
biến chứng (như biết triệu chứng của hạ đường huyết: đói, mệt, đổ mồ
hôi, bủn rủn tay chân… để xử lý bằng cách uống nước đường, ngậm kẹo) và
báo ngay cho bác sĩ khi dùng thuốc có những bất thường.
Hỏi để dùng thuốc đúng cách đối với thuốc hạ đường huyết uống, như
dùng thuốc trước hay sau bữa ăn (repaglirid nên uống 30 phút trước khi
ăn và không uống nếu không ăn, trong khi metformin và nhóm TZD nên uống
cùng bữa ăn hay ngay sau bữa ăn, acarbose thì uống ngay khi bắt đầu ăn).
Không nên: tự chẩn đoán bệnh (như đi tiểu xem có kiến bu) và tự ý
dùng thuốc theo lời mách bảo hoặc theo thông tin đọc trong sách báo. Chỉ
đi khám bệnh và được cho làm xét nghiệm máu mới chẩn đoán đúng bệnh và
phải dùng đúng thuốc mà bác sĩ chuyên khoa chỉ định. Không tự ý dùng
thuốc theo kiểu mới chớm nghi ngờ là vội mua thuốc trị đái tháo đường về
tự chữa (dùng thuốc không đúng còn nguy hại hơn không dùng thuốc).
Hoặc đang dùng thuốc tự ý bỏ thuốc để dùng dược thảo, thuốc đông y
hay phương thức trị liệu nào đó được thổi phồng qua đồn đại, chứ chưa
được chứng thực bằng thử nghiệm lâm sàng đúng quy cách khoa học. Không
bắt chước uống loại thuốc của người khác. Không ngưng thuốc vì thấy
đường huyết về bình thường. Không tự ý tăng liều thuốc cho mau khỏi bệnh
mà không có ý kiến của bác sĩ.
Hiện nay, có nhiều thuốc trị đái tháo đường bị cấm hoặc được khuyến
cáo cao độ vì gây tác dụng có hại ở mức trầm trọng. Như rosigitazon đã
bị cấm vì gây hại cho tim mạch, còn pioglitazon đang bị cảnh giác do làm
tăng nguy cơ ung thư bàng quang. Tuy nhiên, người đang dùng thuốc trị
đái tháo đường nên yên tâm dùng đúng thuốc đã được chỉ định. Bác sĩ điều
trị cho bạn luôn cập nhật thông tin về thuốc để điều chỉnh khi có sự cố
bất thường về sử dụng thuốc. Bác sĩ trực tiếp điều trị là người có thẩm
quyền cao nhất về chế độ dùng thuốc, vì vậy hãy hỏi bác sĩ khi có thắc
mắc về thuốc đang dùng chứ không bỏ ngang việc dùng thuốc, có khi sẽ
nguy hiểm.
Theo PGS.TS.DS Nguyễn Hữu Đức - SGTT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét